1. Đặc điểm của mầm bệnh
Bệnh Dại là một bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho nhiều loại thú cưng và người. Do virus
hướng thần kinh gây ra, thường gây tác loạn thần kinh. Bắt nguồn từ não tuỷ và tuỷ sống. Vật
bị bệnh thường điên cuồng và bại liệt. Bệnh được biết từ thời thượng cổ. Mãi đến 1804 Zinh
truyền bệnh có kết quả và chứng minh được độc lực của nước bọt.
Năm 1880, Pasteur đã chứng minh được độc lực thần kinh và tạo Virus Dại cố định cùng với
Sambeclan và Ru tìm ra phương pháp bảo hộ người bị chó cắn. Nguồn bệnh chính là ở chó
sói, chó nuôi, cáo, chồn. Vùng Nam Mỹ có loài dơi. Virus thuộc họ Paramixo Virus, có kích
thước 100-150nm. Trong tự nhiên có một tyïpe gọi là tyïpe Virus đường phố. Virus có thời
gian nung bệnh ở thỏ 17 ngày, ở người 40 ngày. Ngoài ra, ở các nước nhiệt đới hầu như có
chủng tăng độc lực, ở thỏ 8-9 ngày, ở người 26 ngày.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, Virus vào thần kinh trung ương. Từ đó theo dây thần kinh ra
tuyến nước bọt. Bởi vậy, nước bọt của chó có độc lực trước khi có triệu chứng 2-14 ngày và
7 ngày sau khi lành bệnh. Trong não Virus vào bán cầu đại não, hành não, các hạch vận
động, nhưng nhiều nhất là ở sừng Amon của tam giác não và tạo thành thể Negri. Có thể phát
hiện trên kính hiển vi điện tử, sau khi nhuộm Gemsa, Xemle.
Virus mẫn cảm ới sức nóng. Nhiệt độ 500C chết trong 1 giờ, ở 700C chết ngay. Trong não
thối Virus sống vài tuần. Có khi 6-7 tháng, não ướp lạnh còn độc lực đến 2 năm.
Tia tử ngoại giệt 5-10 phút. Acide chlohydric 3-5% trong 5 phút, Formol 5%, ánh sáng mặt
trời 5-10 giờ.
2. Truyền nhiễm học
2.1. Loài mắc bệnh
Tất cả các loài động vật máu nóng đều mắc bệnh Dại, nhưng mẫn cảm nhất là loài chó, cáo, trâu, bò, ngựa, thú cưng, lạc đà, khỉ, chuột, gấu, mèo, dơi đều truyền bệnh cho người. Loài chim không mẫn cảm, trừ trường hợp gây bệnh thực nghiệm, nhúng chân vào nước lạnh. Trong phòng thí nghiệm, người ta dùng chuột lang, chuột bạch, thỏ để gây bệnh.
2.2. Chất chứa mầm bệnh
Trong cơ thể con bệnh Virus Dại cư trú ở hệ thần kinh, não, tuỷ sống. Hầu như lúc nào cũng
có độc lực, nhiều nhất là sừng Amon, chất xám vỏ não, các dây thần kinh ngoại biên, nhất là
dây thần kinh tam thoa (số 5). Một số hạch thần kinh cũng có độc lực. Tuyến nước bọt thường có độc lực sớm, thời kỳ này thường là nguồn bệnh nguy hiểm.
Mắt, giác mạc có Virus. Máu có độc lực nhưng không đều. Ngoài ra còn có ở nước tiểu, tuyến thượng thận, lách, gan, phổi nhưng rất biến động. Chó khỏi bệnh mang mầm bệnh Dại một thời gian dài.
2.3. Đường xâm nhập
Virus Dại xâm nhập trực tiếp qua vết cắn, có khi qua nơi bị tổn thương do cơ giới, nhiễm qua nước bọt hay do khâu quần áo, đi ủng, đeo kính bảo hộ, nó qua niêm mạc mắt, qua núm nhau, cũng có thể gián tiếp qua vật bị bệnh. Trong thí nghiệm Virus Dại truyền qua não, mắt, da.
2.4. Cách sinh bệnh
Virus Dại không sinh sản ở vết cắn, mà theo dây thần kinh về hạch, rồi vào trung ương thần
kinh. Cũng có khi đi qua đường máu, qua lâm ba, qua núm nhau vào trung ương thần kinh.
Virus Dại sinh sản nhanh, rồi theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt. Cơ năng thần kinh chưa
tổn thương, vẫn bình thường, về sau Virus phá hoại dần, vật bị kích thích, rối loạn tâm lý,
hung dữ, sợ sệt. Cuối thời kỳ chuyển sang bại liệt, cũng có khi Virus Dại nằm tiềm tàng ở vết
sẹo. Khi cơ thể yếu mới gây bệnh. Thời kỳ nung bệnh phụ thuộc vào vết cắn. Vết cắn gần
thần kinh trung ương bệnh phát nhanh, xa trung ương thần kinh bệnh Dại phát ra chậm.
3. Triệu chứng
3.1. Ở chó có ba thời kỳ
3.1.1. Dại điên cuồng
Bệnh Dại, thú cưng bắt đầu thay đổi thói quen thường ngày, co cáu, bứt rứt, hung dữ hoặc trở
nên hiền lành, vồn vã, cũng có khi trông thú cưng buồn rầu nhưng vẫn ăn. Thú cưng hay cường
dương, vật bắt đầu sốt, có khi một đến hai giờ. Virus tác động lên thần kinh, lúc đó nước bọt
bắt đầu có độc lực.
3.1.1.2. Thời kỳ kích thích
Thú cưng bắt đầu có những biến loạn về cảm giác, cơ năng, chạy lung tung, hoảng loạn, vồ
bóng, vồ hình. Chỗ bị thương ngứa, sưng họng, vật khó nuốt giống như hóc xương. Khi sủa
tiếng kêu khản đặc, đôi lúc rú lên. Cõ trường hợp trễ hàm, lưỡi thè ra ngoài, chảy nhiều nước
bọt. Mắt đỏ và sâu. Đuôi cụp, bụng thóp, vật sợ gió, sợ nước, sợ ánh sáng. Bỏ chạy, hay rúc
đầu vào bóng tối, vật gầy sút nhanh, sau một thời gian thì bại liệt.
3.1.1.3. Thời kỳ bại liệt
Sau cơ hung dữ, chuyển sang thời kỳ bại liệt. Thú cưng thường nằm vào chỗ tối. Mắt sâu, hàm
trễ, mệt vì kiệt sức. Bụng thóp không tiêu hoá, có thể suy yếu trong vòng 4 đến 5 ngày thì
chết.
3.1.2. Dại bại liệt
Còn gọi là Dại im lặng, vật buồn rầu thích nằm trong bóng tối, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra,
nước dãi chảy tự do, vật không cắn, không sủa gọi là Dại câm. Thường là chó bị liệt toàn
thân hay liệt hai chân sau. Sau đó vật suy sụp nhanh chóng nằm xuống lịm dần và chết.
3.2. Bệnh Dại ở mèo
Mèo bị bệnh Dại hơn chó, do lối sống thu mình của nó. Mèo bị bệnh thường buồn bã, tìm
chỗ kín đáo nằm. Bại liệt dần hoặc kêu luôn, bứt rứt. Nếu sờ vào thì cắn. Sau đó chuyển sang
thể bại liệt. Dại ở mèo thường nguy hiểm, vì mèo thường hay gần gũi với người, khi cắn vết
cắn thường sâu.
3.3. Bệnh Dại ở chó
Dại thường hung dữ. Sau chuyển nhanh sang bại liệt. thường là ngứa ở chỗ bị cắn. Bụng đầy hơi nhẹ, đứng không yên. Mắt nhìn trừng trừng, luôn giữ tư thế tấn công bất kỳ vật gì hay người lại gần nó. Thú cưng bí ỉa, bí đái, khó chịu, không ăn. Sau chuyển sang bại liệt, cơ vòng hậu môn liệt, nằm phục xuống rồi chết.
4. Bệnh tích
Về đại thể, bệnh tích trong bệnh Dại không có gì đặc biệt. Xác chết gây do vật không ăn, bại
liệt hoặc giai đoạn đầu khi mắc bệnh vật vận động quá nhiều xác bẩn, có thể có vật lạ ở
trong. Ruột có thể trống rỗng, trong chứa nước vàng. Phổi tụ máu. thịt, gan, biến chất tái nhạt
đi. Bóng đái trống rỗng, cơ vòng bị liệt, nước đái có đường. Não có máu và có thể thuỷ
thũng, hạch sưng to. Có thể lấy não nhuộm bằng Seller, Mann, Gemsa để tìm Negri. Negri có
hình tròn hoặc hình bầu dục, bắt màu đỏ trên nền tế bào thần kinh xanh. Các mạch máu bị
bạch cầu xâm nhập làm cho lòng mạch quản hẹp lại, có khi trong đó chứa đầy bạch cầu.
Bạch cầu còn xâm nhiễm xung quanh tế bào thần kinh.
5. Chẩn đoán
5.1. Chẩn đoán phân biệt
Khi bệnh Dại đã toan phát dể chẩn đoán, bệnh chưa phát rõ thì việc thay đổi thói quen là dấu hiệu rất đáng quan tâm. Trong trường hợp đấy phải nhốt riêng để theo dõi, lấy nước bọt tiêm vào não thỏ hoặc chuột để kiểm tra. Cần phân biệt với các bệnh sau.
5.1.1. Bệnh Giả Dại
Bệnh Giả Dại: Vật ngứa dữ dội, chạy lung tung và hay cắn vào chỗ ngứa, không lác mắt, không sợ gió, không sợ nước, không sợ ánh sáng, không trễ hàm, kiểm tra não không có thể Negri.
5.1.2. Bệnh trúng độc Stricnine
Bênh trúng độc Stricnine: bệnh tiến triễn rất nhanh, vật bị co giật mạnh, giãn động tử mắt, vật chết nhanh.
5.1.3. Bệnh Sài sốt chó
Bệnh Sài sốt chó: trong thể bệnh thần kinh có thể co giật. Mụn mọc lên ngoài da, viêm phổi,
viêm ruột, kiểm tra có thể Lentz.
5.2. Chẩn đoán Virus học
Tìm thể Negri trong máu chó bằng cách nhuộm Gemsa, Mann, Seller nhưng kết quả không cao. Vì vậy, phải tiêm truyền cho chuột, thỏ. Nếu đúng bệnh Dại, chuột, thỏ sẽ phát cơn điên, giết chúng để tìm thể Negri trong não.
5.3. Chẩn đoán huyết thanh học
Có thể làm phản ứng kết tủa khuếch tán trên thạch, giữa kháng thể chuẩn nhuộm huỳnh
quang với kháng nguyên nghi bệnh. Lấy nước bọt cho lên phiến kính cố định 15 giây trên
ngọn lửa đèn cồn, nhỏ lên vài giọt Isthoxiamat gama globulin antirabic, giữ trong đĩa petri,
nhuộm 1 giờ, rửa hai lần bằng dung dịch đêm phốt phát có pH = 7,2 đến 7,4, tráng bằng nước
cất, hong khô, xem dưới kính hiển vi huỳnh quang.
6. Phòng trị
Dùng huyết thanh bệnh Dại thì tốt nhất, nhưng phải tiêm sớm không quá 72 giờ, liều tiêm 0,5
đến 1ml trọng lượng. Vaccine chế qua thai gà 136 đời dùng cho chó 3-5ml tiêm dưới da hay
bắp, tốt nhất tiêm hai lần cách nhau 7 ngày. Người bị chó cắn, rửa vết thương bằng xà phòng,
rồi rửa lại bằng cồn, rượu, Ete (ete bằng 1/2 rượu). Dùng Vaccine euenzelida chế từ chuột
nhắt trắng 4-8 ngày tuổi, cho nhiễm Virus cố định, vô hoạt bằng β-propiolactol, liều tiêm
0,2ml, cách mỗi ngày tiêm 1 mũi, liều tiêm 6 mũi, 2 mũi nhắc lại. Trẻ con dưới 15 tuổi tiêm
0,1ml trong da.