Đông dược Thú y và Đông Dược Thú Cưng là môn học mới được thành lập gần đây. Tuy vậy việc tìm tòi cây cỏ chữa bệnh cho vật nuôi đã được nhân dân ta, đặc biệt là các danh y nổi tiếng
của dân tộc áp dụng từ thời cổ xa. Các thầy lang được mời về kinh đô ngoài việc
chữa bệnh cho vua chúa, quan lại, nhiều khi còn phải chữa bệnh cho cả thú cưng nuôi
có nhiệm vụ bảo vệ hay làm cảnh ở trong cung đình: voi, ngựa, chó, chim....Rất tiếc
việc đó làm xong cha được các danh y quan tâm ghi chép lại. Vì vậy không có những
bộ sách lớn chuyên về Đông dược thú y. Sau ngày giải phóng 1954, các cán bộ thú y
của ta đã quan tâm hơn đến vấn đề chữa bệnh cho thú cưng và gia cầm bằng thuốc
Nam, đã đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm chữa bệnh cho thú cưng trong nhân dân và đem
áp dụng. Nhìn chung những kinh nghiệm được phổ biến còn rất đơn giản, tản
mạn.việc su tầm, tổng hợp một cách khoa học để viết thành chuyên luận lớn giới
thiệu việc dùng thuốc nam chữa bệnh thú cưng, gia cầm còn rất ít. ở một số sách giáo
khoa thú y: Nội, Ngoại, Sản, Ký sinh trùng, Dược lý... cũng có giới thiệu một số vị
thuốc nam thường dùng trong thú y để chữa bệnh cho vật nuôi. Các giáo trình này
cũng chỉ nhấn mạnh đến việc sử dụng vị thuốc để chữa bệnh mà cha đi sâu tìm hiểu
cơ chế, tác dụng dược lý... của vị thuốc đó.
Muốn hiểu về lịch sử phát triển của Đông dược Thú y ở Việt Nam chúng ta cần
phải biết được lịch sử phát triển của Dược liệu học nói chung của nước ta.
lịch sử của môn dược liệu học ở Việt Nam.
Tập dược liệu đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam năm 1429 thời Lê Thái Tổ.
Đây là một cuốn sách do Phan Phu Tiên biên soạn, từ cuối đời Trần, qua thời nhà
Hồ và thời kỳ giặc Minh chiếm đóng (1407-1413) đến năm 1429 thì hoàn thành.
Tập dược liệu thứ 2 có giá trị đó là Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh. Cụ đã
ghi rõ giá trị của 630 vị thuốc nam, kèm theo đó một tập gồm 13 đơn thuốc làm mẫu
và 37 cách chữa các chứng sốt nhiệt (thập tam phương gia giảm và thương hàn thất
thập pháp). Theo cụ, đối với người Nam, thuốc nam thích hợp và tốt nhất. Tuệ Tĩnh
được coi là người đầu tiên sáng lập ra nền Y học Việt Nam (sau này Lãn Ông là ng-
ười tuyên truyền rất có uy tín và kết quả). Tuệ Tĩnh được coi là Tổ sư của Y học cổ
truyền ở Việt Nam. Hiện nay có chùa Hồng vân được thiết lập để nhớ ơn Cụ. Nhà
Minh phong kiến, thấy nước ta có vị danh y chuyên dùng các vị thuốc nam để giảm
giá thành thuốc bắc nên đã sang “đón” Cụ về Trung Quốc chữa bệnh cho Tống Vương Phi. Năm 1412, sau khi Cụ đã chữa khỏi bệnh cho Tống Vương Phi, vẫn không
được tha về mà bị giam giữ ở thành Kim Lăng. Đồng thời các sách Cụ viết ra trước
đều bị nhà Minh tìm cách mua lại hết. Tuệ Tĩnh vắng mặt ở nước Nam nên thuốc
Nam bị phát triển chậm một thời gian.
Tiếp theo Tuệ Tĩnh là cụ Hải Thượng Lãn Ông (1721-1792). Trong đời hoạt động
cống hiến cho nghề thuốc, Hải Thượng Lãn Ông đã để lại cho chúng ta một bộ sách
gồm 66 quyển, trình bày cả y lý và dược liệu, đồng thời còn có một tập sách nhỏ
khác, kê nhiều đơn thuốc có giá trị. Lãn Ông được coi là người sáng lập ra nghề thuốc
Việt Nam.
Đã nhiều lúc, thuốc nam, thuốc bắc bị coi khinh, xem thường. Sách về dược liệu
hầu như rất ít. Nhưng trong nhân dân, việc dùng thuốc nam thuốc bắc vẫn được tín
nhiệm lưu truyền.
Ngày nay, phương châm kết hợp Đông Tây y được đề cao. Về mặt cơ sở vật
chất, thiết bị hiện đại được tăng cường để đa khoa học tiên tiến vào việc nghiên cứu
và sử dụng các nguồn được liệu phong phú của nước ta.
Nhiều cơ quan nghiên cứu và giảng dạy về Dược liệu xây dựng và phát triển
như Viện nghiên cứu y học cổ truyền, Viện Dược liệu, Trường Đại học Dược khoa, Công Ty Phòng Khám Đại Gia Đình DAIBIO, Viện Thú Y, Công Ty Công Nghệ Sinh Học Đại Gia Đình LOTIPET...
Nhiều sách viết về Dược liệu Việt Nam đã xuất bản và có giá trị không ở trong
nước, mà cả các nước trên thế giới cũng đánh giá cao.
Bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi đã được
coi là một trong 6 viên ngọc quý của thế giới, trong dịp triển lãm sách quốc tế trước
đây.